Chú thích Nhà_Kim

    1. Đương thời tộc Nữ Chân có Hoàn Nhan bộ, Bạch Sơn bộ, Da Hối bộ, Thống Môn bộ, Da Lãn bộ, Thổ Cốt Luân bộ, Ngũ Quốc bộ, sinh sống ở phía bắc Trường Bạch Sơn, lưu vực Tùng Hoa Giang cùng khu vực Hắc Long Giang.[10].
    2. Người Nữ Chân mỗi năm phải tiến cống trân châucắt kên kên dùng cho việc săn bắn[10].
    3. Tướng Liêu là Trương Giác trấn thủ Bình châu, sau khi đầu hàng triều Kim vẫn được Kim cho trấn thủ Bình châu. Khi Kim trao các khu vực như Yên Kinh, Trác châu cho Bắc Tống, Trương Giác có ý muốn chuyển sang nương nhờ Bắc Tống, do vậy phản Kim và dâng thành hàng Bắc Tống. Sau đó Kim Đế phái Hoàn Nhan Tông Vọng bình định cuộc phản loạn này, đồng thời dựa vào việc này để xuất binh phạt Tống[10].
    4. Kim Thái Tông yêu cầu Tống Khâm Tông cho Khang vương Triệu Cấu, Thái tể Trương Bang Xương làm con tin, đồng thời yêu cầu cắt nhượng ba trấn Thái Nguyên, Trung Sơn, Hà Gian (nay thuộc Hà Bắc) để nghị hòa. Sau khi quân Kim về Bắc, triều Tống không thi hành điều ước, quân Kim lại có cớ để nam hạ.[10].
    5. Phái chủ chiến có Hoàn Nhan Tông Hàn, Hoàn Nhan Tông Vọng, Hoàn Nhan Tông Cán, Hoàn Nhan Tông Hiến, Hoàn Nhan Tông Bật (Ngột Truật), Hoàn Nhan Hy Doãn, họ chủ trương triệt để tiêu diệt thế lực người Tống, không cần phải thiết lập chính quyền bù nhìn, trực tiếp quản lý đất Tống; phái chủ hòa có Hoàn Nhan Tông Bàn, Hoàn Nhan Tông Tuấn, Hoàn Nhan Thát Lãn, họ chủ trương cùng Tống hợp đàm, trả đất đai cho người Tống, hai bên duy trì hòa bình[10].
    6. Đương thời, đại thần Trương Hạo, Da Luật An Lễ, Kỳ Tể và đích mẫu của Hoàn Nhan Lượng là Đồ Đơn thị cực lực phản đối nam chinh, chỉ có nhóm Trương Trọng Kha, Lý Thông ủng hộ. Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng khăng khăng độc đoán, sát hại Kỳ tể và đích mẫu Đồ Đơn thị để răn đe phái phản đối.[16].
    7. Tống tôn kim làm bác, tăng tuế tệ mỗi năm lên 30 vạn lạng bạc, 30 vạn thất lụa, nộp cho triều Kim 300 vạn lạng "khao quân tiền", Kim trả lại đất Nam Tống bị mất trong cuộc chiến[19]
    8. Khi các bộ tộc Mông Cổ là phiên thuộc của triều Kim, triều Kim vì muốn tránh tình thế xuất hiện một bộ lạc lớn mạnh thống nhất người Mông Cổ nên thường kích động các bộ lạc chống đối lẫn nhau, đồng thời cứ vài năm lại suất quân lên Mạc Bắc để đồ sát, giảm đinh, khiến các bộ lạc Mông Cổ nảy sinh thái độ đối địch với Kim.[21].
    9. Hoàn Nhan Vĩnh Tế trước đó từng hội diện với Thiết Mộc Chân, được đánh giá là hư nhược vô năng[21].
    10. Thời áp dụng chế độ bộ lạc Nữ Chân, trưởng lão bộ lạc ở giữa chốn sơn dã, chỉ vạch đất đá nghị sự. Đến thời Ô Nhã Thúc, khi có việc vẫn phải tụ tập thương nghị.[5].
    11. Năm 1166, dịch "Sử ký", "Hán thư". Năm 1175, Kim Thế Tông lại một lần nữa hạ chiếu phiên dịch kinh sử. Năm 1183, dịch kinh sở trình lên bản dịch Nữ Chân tự của "Thượng thư", "Luận ngữ", "Mạnh Tử", "Lão Tử", "Dương Tử", "Văn Trung Tử", "Lưu Tử" và "Tân Đường thư".

    Liên quan

    Tài liệu tham khảo

    WikiPedia: Nhà_Kim http://jwsr.ucr.edu/archive/vol12/number2/pdf/jwsr... http://books.google.com.hk/books?id=t21yghJHIpEC&p... http://www.archive.org/stream/06059337.cn#page/n11... //dx.doi.org/10.1111%2F0020-8833.00053 //dx.doi.org/10.5195%2FJWSR.2006.369 http://www.escholarship.org/uc/item/3cn68807 //www.jstor.org/stable/2600793 //www.worldcat.org/issn/1076-156X https://web.archive.org/web/20070222011511/http://... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Jin_Dy...